Ngôn ngữ Ai_Cập_cổ_đại

Bài chi tiết: Ngôn ngữ Ai Cập

Lịch sử phát triển

r n kmt
'Tiếng Ai Cập'
bằng chữ tượng hình


Tiếng Ai Cập là một ngôn ngữ Phi-Á phía bắc có mối quan hệ gần gũi với tiếng Berberngôn ngữ Semite.[122] Nó là một trong những ngôn ngữ có lịch sử lâu đời nhất (chỉ sau tiếng Sumer), và được viết từ khoảng năm 3200 TCN cho đến thời Trung Cổ và tồn tại là một ngôn ngữ nói còn lâu hơn nữa. Các giai đoạn của tiếng Ai Cập cổ đại là Cổ Ai Cập, Trung Ai Cập (tiếng Ai Cập cổ điển), Hậu kỳ Ai Cập, ngôn ngữ bình dân và tiếng Copt.[123] Những ghi chép của người Ai Cập không cho thấy sự khác biệt về phương ngữ trước giai đoạn Copt, nhưng có thể co sự khác biệt trong cách nói tiếng địa phương ở khu vực xung quanh Memphis và Thebes sau này.[124]

Ngôn ngữ Ai Cập cổ đại là một ngôn ngữ đa tổng hợp, nhưng nó đã dần trở thành một loại ngôn ngữ đơn lập sau này. Đến giai đoạn Hậu kỳ Ai Cập, nó đã phát triển các tiền tố hạn định và các mạo từ bất định, mà thay thế cho các hậu biến tố cũ. Đã có một sự thay đổi từ thứ tự động từ-chủ ngữ-bổ ngữ cũ thành dạng chủ ngữ-động từ-bổ ngữ.[125] Các ghi chép bằng chữ tượng hình, chữ thầy tu, và ngôn ngữ bình dân Ai Cập đã dần dần bị thay thế bằng bảng chữ cái ngữ âm của tiếng Copt. Tiếng Copt vẫn được sử dụng trong các nghi thức tế lễ của Giáo hội Chính Thống Ai Cập, và dấu vết của nó còn được tìm thấy ở trong ngôn ngữ Ai Cập Ả Rập ngày nay.[126]

Phát âm và ngữ pháp

Ngôn ngữ Ai Cập cổ đại có 25 phụ âm tương tự với những ngôn ngữ Phi-Á khác. Chúng bao gồm phụ âm đầutrọng âm, âm tắc, âm xát và âm rung, âm vang và âm ồn. Nó có ba nguyên âm dài và ba nguyên âm ngắn, sau này vào thời Hậu kỳ Ai Cập thì nó được mở rộng lên thành chín.[127] Các từ cơ bản của tiếng Ai Cập tương tự như tiếng Semite và Berber, bao gồm ba hoặc hai gốc phụ âm và bán phụ âm. Hậu tố được thêm vào để tạo thành từ. Việc chia động từ tương ứng với ngôi. Ví dụ, bộ khung ba phụ âm S-Ḏ-M là phần cốt lõi ngữ nghĩa của từ 'nghe'; chia động từ cơ bản của nó là sḏm, 'ông ta nghe'. Nếu chủ ngữ là một danh từ, hậu tố không được thêm vào động từ:[128] sḏm ḥmt, 'người phụ nữ nghe'.

Tính từ được tạo thành từ danh từ thông qua một quá trình mà các nhà Ai Cập học gọi là nisbation vì sự tương đồng so với tiếng Ả Rập.[129] Thứ tự của từ là vị ngữ-chủ ngữ trong động từ và tính từ, và chủ ngữ-vị ngữ trong danh từ và phó từ.[130] Chủ ngữ có thể được di chuyển đến đầu câu nếu nó dài và được theo sau bởi một đại từ bổ ngữ.[131] Các động từ và danh từ dạng phủ định thì thêm tiếp đầu ngữ n, còn nn được sử dụng cho các trạng từ và tính từ. Trọng âm rơi vào âm tiết cuối cùng hoặc áp chót, có thể là mở âm (CV) hoặc đóng âm (CVC).[132]

Chữ viết

Phiến đá Rosetta (khoảng năm 196 TCN).[133]Chữ tượng hình Ai Cập trên một tấm bia mộ cất giữ ở Bảo tàng Manchester

Những ghi chép bằng chữ tượng hình có niên đại từ khoảng năm 3000 TCN, và bao gồm hàng trăm biểu tượng. Một chữ tượng hình có thể đại diện cho một từ, một âm thanh, hoặc một âm câm nhất định; và cùng một biểu tượng tương tự có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau trong những bối cảnh khác nhau. Chữ tượng hình là một dạng chữ viết chính thức, được sử dụng trên các công trình bằng đá và trong các ngôi mộ, và nó có thể mang tính chi tiết như các tác phẩm nghệ thuật cá nhân. Trong các ghi chép hàng ngày, các viên ký lục đã sử dụng một dạng chữ viết soạn thảo, còn được gọi là chữ thầy tu, giúp họ viết nhanh hơn và dễ dàng hơn. Trong khi chữ tượng hình chính thức có thể được đọc theo hàng hoặc cột hoặc cả hai hướng (mặc dù thường được viết từ phải sang trái), chữ thầy tu thì lại luôn luôn được viết từ phải sang trái, thường là theo các hàng ngang. Một dạng chữ viết mới, chữ viết bình dân (Demotic), sau này đã trở thành cách viết phổ biến, và dạng chữ viết này cùng với dạng chữ tượng hình chính thức đã được sử dụng trên phiến đá Rosetta kèm theo văn bản tiếng Hy Lạp.[134]

Khoảng thế kỷ thứ nhất, bảng chữ cái Copt đã bắt đầu được sử dụng cùng với chữ viết bình dân. Chữ Copt là một dạng biến thể của bảng chữ cái Hy Lạp với việc bổ sung thêm một số dấu hiệu của chữ viết bình dân.[135] Mặc dù chữ tượng hình chính thức được sử dụng trong các nghi lễ cho đến thế kỷ thứ tư, tới giai đoạn cuối chỉ có một số ít các thầy tu vẫn còn có thể đọc được chúng. Khi mà các tôn giáo truyền thống bị cấm đoán, hiểu biết về chữ viết tượng hình được coi là đã thất truyền. Những nỗ lực nhằm giải mã chúng đã bắt đầu từ thời Byzantine[136] và trong thời kỳ Hồi giáo ở Ai Cập,[137] nhưng mãi đến năm 1822, sau khi phiến đá Rosetta được phát hiện và qua nhiều năm nghiên cứu của Thomas Young cùng Jean-François Champollion, chữ tượng hình mới gần như được giải mã hoàn toàn.[138]

Chữ tượng hình trên một bức vẽ

Văn học

Một cuốn sách của người chết viết trên giấy papyrus

Những ghi chép đầu tiên xuất hiện gắn liền với vương quyền của nhà vua là trên các nhãn và thẻ của vật dụng được tìm thấy trong những ngôi mộ hoàng gia. Đó là công việc chính của những viên ký lục, họ làm việc trong tổ chức Per Ankh hoặc Ngôi nhà sinh mệnh. Thể chế này bao gồm các nghi lễ, thư viện (gọi là Ngôi nhà sách), phòng thí nghiệm và các đài quan sát.[139] Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học Ai Cập cổ đại đó là các văn bản trong các kim tự tháp và trên những chiếc quan tài, được viết bằng ngôn ngữ Ai Cập cổ điển, mà vẫn tiếp tục được sử dụng để ghi chép cho đến khoảng năm 1300 TCN. Sau đó từ thời Tân Vương quốc trở đi, người Ai Cập sử dụng văn nói trong các văn bản hành chính thời kỳ Ramesse, trong các tập thơ tình và những câu chuyện, cũng như trong các ghi chép bằng ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ Copt. Trong thời gian này, những ghi chép truyền thống đã phát triển thành những tác phẩm tự truyện trong các ngôi mộ, chẳng hạn như của HarkhufWeni. Một thể loại khác được gọi là Sebayt ("lời chỉ dạy") đã được phát triển để truyền đạt những lời giảng dạy và hướng dẫn từ các quý tộc nổi tiếng; Cuộn giấy Ipuwer- một bài thơ ai ca mô tả thiên tai và biến động xã hội- là một ví dụ nổi tiếng.Tác phẩm Câu chuyện của Sinuhe, viết bằng ngôn ngữ Trung Ai Cập, được coi là một tác phẩm kinh điển của văn học Ai Cập.[140] Cũng được viết vào thời điểm này là Cuộn giấy Westcar, một tập hợp các câu chuyện trong đó những người con trai Khufu kể về những kỳ công của ông, và do các thầy tu viết nên.[141] Lời chỉ dạy của Amenemope còn được coi là một kiệt tác của văn học cận đông.[142] Vào cuối thời Tân Vương quốc, ngôn ngữ bản địa đã thường xuyên được sử dụng để viết những tác phẩm phổ biến như câu chuyện của Wenamunlời chỉ dạy của Any. Từ khoảng năm 700 TCN, những câu chuyện thuật lại và lời chỉ dạy, chẳng hạn như lời chỉ dạy của Onchsheshonqy, cũng như các thư tịch của cá nhân và dùng trong buôn bán đều được viết bằng ngôn ngữ bình dân và theo các giai đoạn của người Ai Cập. Nhiều câu chuyện được viết bằng ngôn ngữ bình dân trong thời kỳ Hy Lạp-La Mã lại lấy bối cảnh vào các thời kỳ lịch sử trước đây, khi Ai Cập là một quốc gia độc lập được cai trị bởi những vị vua vĩ đại như Ramesses II.[143]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ai_Cập_cổ_đại http://arthistory.about.com/od/from_exhibitions/ig... http://www.aldokkan.com/science/metallurgy.htm http://www.ancient-egypt-priests.com/ http://discovermagazine.com/2011/jun/02-egypts-los... http://www.history.com/topics/ancient-history/anci... http://www.omnilogos.com/2015/01/ancient-egypt-267... http://www.oxfordreference.com/view/10.1093/acref/... http://www.seeker.com/most-ancient-port-hieroglyph... http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://fathom.lib.uchicago.edu/1/777777190170/